Biểu hiện của thông minh cảm xúc

Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, cuốn Trí tuệ xúc cảm, Tiến sĩ Daniel Goleman đã bắt đầu với câu chuyện sau đây:

Vào một buổi chiều tháng Tám, ở thành phố New York, không khí ẩm ướt, nóng nực khiến người ta dễ nổi cáu. Tôi trở về khách sạn, khi lên xe buýt ở Đại lộ Madison, người lái xe da đen đứng tuổi mỉm cười nói với tôi: “Xin chào! Anh khoẻ chứ?” Đó là câu đón tiếp anh thường dành cho tất cả hành khách. Hành khách đều lúng túng giống tôi, nhưng phần lớn không đáp lại vì đã quá ủ ê.Khi chiếc xe buýt len lỏi qua những chỗ tắc đường, thì một biến đổi từ từ đã xảy ra. Người lái xe chia sẻ về đủ thứ chuyện: viện bảo tàng nọ đang có cuộc triển lãm tuyệt vời, rạp chiếu phim cuối phố đang chiếu một bộ phim mới,.. Sự thích thú của anh về vô số cơ hội do thành phố mở ra quả là có sức lôi cuốn. Khi rời xe, hành khách đều hết ủ ê, và khi người lái xe nói với theo: “Hẹn gặp lại nhé! Chúc một ngày tốt lành!” thì mọi người đều nở một nụ cười thân thiện. Chuyện đó xảy ra cách đây gần 2O năm nhưng vẫn khắc sâu vào trí nhớ tôi. Khi hình dung lại cảm giác dễ chịu mà những hành khách nói trên có được, tôi hiểu rằng người lái xe ấy là tuýp người có thể làm yên lòng người khác. Anh có khả năng làm thay đổi sự bực bội, làm nguôi ngoai và tháo mở được phần nào tâm tình của mọi người. Đây chính là một vài biểu hiện của trí thông minh cảm xúc.

Theo verywellmind.com, một số đặc điểm của những người có trí tuệ cảm xúc cao gồm có:

1. Khả năng tự nhận thức

Nhà tâm lý học và tác giả Daniel Goleman xác định khả năng tự nhận thức là một trong những thành phần chính của trí tuệ cảm xúc, nghĩa là nhận biết được tâm trạng, cảm xúc và cảm giác của chính mình. Những người thông minh về mặt cảm xúc có thể nhìn nhận tình huống và xác định chính xác nguồn gốc thực sự của cảm xúc mà họ đang trải qua, cũng như nhận thức được cảm xúc và tâm trạng của họ ảnh hưởng đến người khác như thế nào.

2. Khả năng biểu đạt

Những người có trí tuệ cảm xúc cao không chỉ hiểu được cảm xúc mà còn có khả năng thể hiện cảm xúc một cách phù hợp và lành mạnh.

3. Khả năng quản lý bản thân

Quản lý bản thân là trọng tâm của trí tuệ cảm xúc. Những người có trí tuệ cảm xúc cao thường suy nghĩ trước khi hành động. Họ lắng nghe cảm giác và cảm xúc của mình nhưng không để chúng chi phối cuộc sống của họ.

4. Động lực

Những người có trí tuệ cảm xúc cao luôn tìm ra động lực cho bản thân. Họ có khả năng quản lý hành vi và cảm xúc của mình để đạt được mục tiêu hoặc những thành công lâu dài.

5. Sự thấu cảm

Thấu cảm khả năng hiểu được cảm xúc, nhu cầu và những khó khăn của người khác. Những người có trí tuệ cảm xúc cao có thể đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, biết cách chia sẻ cảm xúc, ủng hộ, động viên khi cần thiết.

6. Kỹ năng xã hội

Những người có trí tuệ cảm xúc cao có khả năng tương tác với người khác một cách tự tin và phù hợp. Họ có khả năng giải quyết xung đột và mâu thuẫn một cách hiệu quả và tử tế. Họ đầu tư vào việc duy trì các mối quan hệ xã hội lành mạnh và giúp đỡ những người xung quanh thành công. Họ có khả năng làm việc nhóm tốt và góp phần vào sự thành công của nhóm. Họ biết cách tạo ra một môi trường làm việc tích cực, thúc đẩy sự hợp tác và giao tiếp hiệu quả.

7. Sự thích ứng

Trí tuệ cảm xúc cao thường đi kèm với khả năng thích nghi và ứng phó với các thay đổi một cách linh hoạt. Đó không chỉ là việc đáp ứng với các tình huống khó khăn, mà còn bao gồm khả năng nhận ra và tận dụng các cơ hội mới.

Nói chung, những người thông minh về mặt cảm xúc có thể tự nhận thức, thấu cảm, biểu cảm và sâu sắc. Họ giỏi điều chỉnh cảm xúc và duy trì động lực khi làm việc hướng tới mục tiêu của mình. Họ cũng có kỹ năng xã hội mạnh mẽ và sử dụng sự hiểu biết về cảm xúc để giao tiếp hiệu quả.

Ngược lại, đặc điểm của trí tuệ cảm xúc thấp bao gồm sự vô cảm, kỹ năng ứng phó kém, cảm xúc bộc phát và tự cho mình là trung tâm. Nhưng, câu hỏi được đặt ra ở đây là, trí thông minh cảm xúc là do bẩm sinh hay có thể rèn luyện và phát triển? Và làm thế nào để trở thành một người có trí thông minh cảm xúc cao? Bạn hãy tự mình khám phá nhé!

Lạc Thư

Hà Nội ngày 13/3/2024

(Bài viết được thực hiện nhằm hưởng ứng Ngày Quốc tế Học tập Cảm xúc – Xã hội, SEL Day 2024)

Tại sao tư duy phản biện trong giáo dục rất khó thực hiện ở Việt Nam?

Tư duy phản biện (critical thinking) đang được các nhà giáo dục và cộng đồng xã hội quan tâm gần đây dù những cơ sở lý thuyết ban đầu xuất hiện khá lâu với mong muốn giải phóng con người từ cơ sở khơi gợi sự tò mò tri thức, nghiên cứu và sáng tạo từ chính bản thân, nhận thức và bối cảnh của mình. 

Các tác phẩm về giáo dục phản biện (critical pedagogy) đã và đang được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới nghiên cứu, đánh giá và ứng dụng có thể kể đến như sau: 

“Lá thư gửi người Thầy” (Letter to a Teacher của Lorenzo Milani xuất bản với bản dịch tiếng Anh năm 1969), “Người thầy không biết gì” (The Ignorant schoolmaster của Jacques Rancière xuất bản với bản dịch tiếng Anh năm 1991), 

“Giáo dục của người bị áp bức” (Pedagogy of the Oppressed của Paulo Freire xuất bản năm 1970), “Việc học và khác biệt xã hội” (Learning and social difference của Carmel Borg và Peter Mayo xuất bản năm 2006), 

“Chống lại cái lạc hậu, lỗi thời và biến chất của trường học” – Một vấn đề không của riêng ai (In defence of the school. A public issue của Jan Masschelein và Maarten Simons xuất bản năm 2012) và “Rủi ro tiềm tàng của giáo dục” (The beautiful risk of education của Gert Biesta xuất bản năm 2013).

Điều cốt lỗi ở những tác phẩm này đối với giáo dục phản biện có cùng mục tiêu chung là khai phóng người học (emancipate the learners) ở khía cạnh thay đổi nhận thức, theo đuổi kiến thức, tự do học tập, sáng tạo từ chính ao ước, nhu cầu, năng lực và bối cảnh của từng người ở từng xã hội khác nhau. 

Tuy nhiên, khái niệm khai phóng (emanicipation) trong tư duy nhận thức và giáo dục phản biện cũng dễ dàng gây hiểu lầm cho các nhà nghiên cứu và quản lý khi chưa tiếp xúc nhiều và hiểu về quá trình giáo dục khai phóng này. 

Do luôn có nhiều hơn hai mặt của nhận thức này, tôi xin phép làm rõ sự khác nhau giữa giáo dục phản biện và các triết lý giáo dục khác, các nhầm lẫn từ các yếu tố tác động đến xã hội và các nguyên nhân khả năng áp dụng giáo dục phản biện có thể không thành công ở Việt Nam nhằm mục đích góp phần chung tay xây dựng thực hiện hiệu quả chiến lược đổi mới giáo dục hiện nay. 

Các nhầm lẫn về khái niệm khai phóng và giáo dục phản biện ở Việt Nam

Khi các nước phương Tây đẩy mạnh thay đổi xã hội từ giáo dục chính trị với các quan điểm giáo dục và triết lý hiện đại, kể cả giáo dục phản biện với mục tiêu khai phóng người học là chính, cả giáo dục chính trị, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và giáo dục gia đình đều có điểm chung là đa số vẫn theo hình thức giáo dục áp đặt một chiều với sự hạn chế về việc thắc mắc, đặt câu hỏi, phản biện ngược từ người học sang người dạy. 

Tôi nhận xét việc chậm thay đổi này có liên quan đến các nhận thức sai lầm về khái niệm khai phóng và giáo dục phản biện ở Việt Nam.

Việc kết tội oan cho các khái niệm này có thể dễ dàng kiểm chứng bằng việc hỏi nhiều đối tượng khác nhau các câu hỏi sau:

– Theo bạn, giáo dục phản biện là gì?
– Tư duy phản biện là tư duy như thế nào?
– Giáo dục khai phóng là gì và người học tự khai phóng sẽ như thế nào? 

Với 3 câu hỏi này nếu bạn tìm được nhiều đáp án rất khác nhau thì đó chính là biểu hiện của sự nhầm lẫn khái niệm bởi vì chúng có ít biến thể từ chung nguồn gốc phát triển của các triết lý mang những khái niệm này.

Bạn hoàn toàn có thể nghĩ khai phóng sẽ giúp con người nhận ra được bản thân họ là ai, họ cần làm gì, đang làm gì và sẽ làm gì để có thể tự do suy nghĩ, tự do học hành và tự do mưu cầu hạnh phúc thông qua sự chuyển biến trong chính bản thân nhận thức của họ về cuộc sống, về hiện tại và về tương lai (điều này không sai về bản chất). 

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều ngầm hiểu rằng khai phóng có nguy cơ (cùng với tác dụng phụ của giáo dục phản biện) khiến người học sẽ đứng lên chống lại chính sự bất công của người dạy dành cho người học (đôi khi được hiểu là các đấu tranh cho bất công trong xã hội, với giai cấp lãnh đạo), đấu tranh vì nội dung các chương trình học nhiều với lý thuyết nhưng thiếu thực tiễn dẫn đến ra đời thiếu kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng và cả khả năng tư duy. 

Tôi nghĩ rằng tác dụng phụ của giáo dục phản biện cần đặc biệt nghiên cứu.

Tuy nhiên, nếu hiểu đúng thì giáo dục phản biện không tạo ra xung đột giữa các đối trọng trong quan hệ giáo dục đào tạo hay chính trị bởi vì giáo dục phản biện nguyên bản khuyến khích người học nhận thức được hiện thực, trở nên tự do về lý trí và tiến hành thay đổi từ chính bản thân, từ bối cảnh và điều kiện của họ với nhiều quyền tự do lựa chọn nơi học, ngành học, khóa học và cả giáo viên giỏi.

Giáo dục phản biện không nên bị xem là triết lý giáo dục “phản động”.

Giáo dục phản biện chỉ giúp người học hiểu biết vấn đề và thực trạng học tập của họ, nhu cầu xã hội, rèn luyện khả năng tư duy để đánh giá và phản biện lại bằng các chứng cứ khoa học, luận cứ đáng tin cậy nhằm thay đổi bản thân và cộng đồng, trường học nơi họ theo học (chỉ hiểu hiện thực để phấn đấu cải thiện tốt hơn). 

Phản đối những gì đang diễn ra trong hệ thống giáo dục Việt Nam không giúp cho giáo dục Việt Nam thay đổi, cũng không đồng nghĩa chúng ta sẽ có tư duy phản biện. 

Giáo dục phản biện giúp con người từ những gì đang diễn ra trong nghịch cảnh giáo dục áp đặt của Việt Nam tìm hiểu và nhận ra những việc cần làm để tự cứu họ ra khỏi chính nghịch cảnh tồn tại lâu nay mà họ chưa tự nhận ra được bằng cách suy nghĩ cẩn trọng về những gì phải làm, phải học, phải thi và phải thay đổi và đưa ra lựa chọn tối ưu riêng trong điều kiện của họ vì tương lai đối với một con người khai phóng cho một xã hội tiến bộ. 

Tư duy phản biện không đồng nghĩa với việc cãi lại giáo viên, không vâng lời mà kết quả của một quá trình rèn luyện của người học cùng với người dạy và dưới tác động của gia đình và xã hội, các ý kiến được khuyến khích đưa ra để thảo luận với lý luận chân chính và không có sự áp đặt cho một xu hướng hay quan điểm nào được xem là đáp án. 

Giáo dục phản biện sử dụng các phương pháp để giúp người học rèn luyện tư duy như đặt vấn đề mở không có trước đáp án (problem-posing technique from Paulo Freire) và phương pháp hỏi khi cả giáo viên và học sinh đều không biết đáp án chính xác của nội dung được học hoặc thảo luận (interrogation from Jacques Rancière). 

Các phương pháp giáo dục phản biện không đánh giá các giao thức ban phát, nhận cho do đó rất cần điều kiện để thực hiện đúng. 

Các phương pháp này rất khác so với các phương pháp giảng dạy phổ biến của Việt Nam là giáo viên đọc – học sinh chép, giáo viên hỏi – học sinh trả lời, học sinh hỏi trong giới hạn cho phép về nội dung, thời gian và không gian… 

Điểm khác chung chính là phương pháp gợi mở hay đặt vấn đề mà dù thế nào thì các giáo viên cuối cùng vẫn phải đảm bảo cung cấp một đáp án đúng (Socratic dialogical method hay theo suy nghĩ ở các phương pháp dạy truyền thống).

Mục tiêu giáo dục phản biện khác với mục tiêu giáo dục ở các triết lý giáo dục khác như thế nào?

Mọi so sánh đều khập khiễng vì mỗi triết lý giáo dục đều có quá trình hình thành và phát triển tùy từng bối cảnh xã hội nơi triết lý đó tồn tại. 

Do đó, để dễ hiểu và phù hợp với mọi đọc giả, tôi sẽ phân loại các nề nếp giáo dục của Việt Nam chúng ta so với bản đồ triết lý giáo dục phương Tây để từ đó ai cũng có thể xác định triết lý riêng của riêng mình hay cho quá trình giáo dục của gia đình trong khi chờ đợi một triết lý vững vàng hơn từ các cơ quan hữu trách. 

Tôi đưa ra quan điểm về khả năng mỗi người dân Việt Nam có thể xác định triết lý giáo dục riêng cho mình bởi vì triết lý tồn tại trong cuộc sống của mỗi người ở mỗi xã hội.

Dù có nhiều trường phái triết học và triết lý giáo dục khác nhau ở phương Tây nhưng không nơi nào áp dụng giống nhau. 

Tồn tại ở các xã hội khác nhau các mối quan với các triết lý giáo dục khác nhau, tuy nhiên các triết lý trên phân loại giống nhau dựa vào các mối quan tâm đối với quá trình phát triển giáo dục: 

(1) Kỹ năng chuẩn bị cho người học trở thành một ai đó trong xã hội (theo Essentialism), (2) Tính nhân văn và các giá trị đạo đức, chân-thể-mỹ (theo Perennialism), 

(3) Sự tự do trong việc khuyến khích người học phát triển tự nhiên và thông qua các hoạt động để kích hoạt sự sáng tạo và trải nghiệm (theo Progressivism), 

(4) Các vấn đề nóng bỏng của xã hội để kêu gọi thay đổi cho xã hội tốt hơn (theo Reconstructionism)

Và (5) Tự do và khai phóng người học, kể cả người dạy vì họ vẫn là đối tượng chưa có quyền quyết định chính cùng với người học về nội dung, phương pháp trong lớp của họ (theo Critical pedagogy)

Cụ thể, tôi muốn giới thiệu phân loại một vài triết lý giáo dục chính đang tồn tại ở Việt Nam:

– Giáo dục hướng truyền thống, bảo thủ và áp đặt từ người biết nhiều (cha mẹ, thầy cô) đối với các học sinh, sinh viên (người cần được truyền kiến thức): 

Các triết lý giáo dục hướng này chú trọng kiến thức, cái đúng, cái đẹp và sự truyền đạt kiến thức từ người dạy sang người học (bắt nguồn từ các trường phái Plato, Socrates, Aristotle..). 

Triết lý này có thể dễ dàng nhận ra ở một bộ phận không nhỏ trong giáo dục Việt Nam.

Các bậc cha mẹ phụ huynh nào luôn muốn con mình phải nghe lời (vâng lời), mọi việc các con muốn đa số bị từ chối hoặc thỏa hiệp (nền giáo dục cấm đoán). 

Gia đình luôn lo lắng các con sẽ gặp phải chuyện không may, khả năng tương lai không trở thành ông này, bà kia, áp đặt mong muốn cho con mình phải trở thành kỹ sư, bác sĩ, phải đỗ đại học, học để làm quan. 

Luôn sợ con mình không bằng con ai khác, luôn đôn đốc các cháu học thêm, luôn sợ các cháu bị điểm xấu và không hài lòng về điểm số (theo hướng xã hội phong kiến).  

Mong muốn các cháu chưa được lắng nghe đúng mức và giao tiếp hai chiều rất hạn chế.

Giáo dục hướng người học đến các kỹ năng cơ bản và nâng cao cho các vị trí hay công việc cụ thể trong xã hội với những điều mà một người công dân cần (theo chủ nghĩa hiện sinh).

– Giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ và dân chủ của John Dewey khuyến khích học trải nghiệm và đánh giá qua quá trình với các chú trọng vai trò trung tâm của người học để tự do phát triển về thể chất và tinh thần qua các hoạt động, sáng tạo và tương tác. 

Ta có thể dễ dàng nhận thấy các điểm tương đồng ở đây với giáo dục phổ thông và đại học hiện nay (dù chưa hoàn toàn đúng về bản chất, tôi sẽ phân tích sau ở phần nguyên nhân) khi chúng ta đang đánh giá quá trình, hô hào và cố gắng thực hiện lấy người học làm trung tâm và dần dần đến khái niệm học tích hợp, tương tác. 

– Giáo dục phản biện với mong muốn người học từ chính vị trí và điều kiện học tập của mình nảy sinh tò mò, tìm hiểu, đặt câu hỏi, phản bác một cách lôgic và khoa học.

Phản biện về những gì mình học, những gì mình được dạy, qua các phương pháp dạy và học cụ thể vì mục đích phát triển bản thân, gia đình, phát triển xã hội.

Thay đổi các vấn đề xã hội từ chính các tư duy phản biện và hành động sáng tạo để góp phần xây dựng đất nước tốt hơn theo hướng dân chủ với tự do học thuật cho giáo viên và người học. 

Có điểm tương đồng trong giáo dục phản biện và giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ, nhà trường chỉ là một trong những tổ chức đào tạo có tác động đến quá trình rèn luyện kỹ năng và học tập của người học bên cạnh các yếu tố gia đình và xã hội.

Nếu bạn đọc có theo dõi diễn tiến gần đây của dư luận và ý kiến các nhà khoa học giáo dục đối với Chương trình tổng thể giáo dục phổ thông thì rất nhiều người quan tâm đang tìm kiếm một triết lý rõ ràng hơn cho giáo dục Việt Nam. 

Các đặc điểm và thuật ngữ liên quan đến giáo dục phản biện đang được nhắc đến hàng ngày trên các trang báo. 

Điều này cho thấy xã hội và các nhà khoa học đang khẩn thiết đề nghị các cơ quan quản lý giáo dục nghiên cứu và quan tâm đến phát triển con người Việt Nam tương lai với khả năng tư duy phản biện.

Bởi vì khả năng Việt Nam chúng ta có thể không đạt được yêu cầu này do nhiều nguyên nhân xã hội không thể can thiệp, cho ý kiến hoặc thay đổi trong thời gian ngắn như:

Chiến lược quản lý giáo dục, hệ thống đào tạo sư phạm, hệ thống giáo viên hiện hữu, trình độ dân trí của xã hội, quy ước xã hội đối với giáo dục, sự ngược đãi của xã hội đối với giáo dục, định kiến xã hội, yêu cầu tuyển dụng, và nề nếp quản lý cán bộ… 

Để làm rõ thêm các thách thức Việt Nam gặp phải nếu Đảng và nhà nước mong muốn thay đổi giáo dục sang hướng phát triển con người khai phóng với tư duy phản biện. 

Các thách thức này không phải không giải quyết được nhưng muốn giải quyết được thì cần cả hệ thống và xã hội đồng lòng chung sức. 

Tôi phân tích các yếu tố tiêu cực không vì mục tiêu cản trở mong muốn phát triển giáo dục mà vì xã hội cần hiểu để cùng giải quyết.  

Trong giáo dục phản biện, giáo viên đóng vai trò gì, học sinh đóng vai trò gì và quá trình khai phóng diễn ra như thế nào?

Trong giáo dục phản biện, khái niệm trường học được giới hạn bởi văn hóa chính trị, hình thái kinh tế và tác động chủ thể xã hội.

Giáo dục phản biện ra đời nhằm mục đích thay đổi hiện trạng giáo dục tốt hơn tiến đến cải cách với vai trò của giáo viên (trích Gutek, 1997; trang 327) bao gồm:

1. Thực hiện các hoạt động thực sự đổi mới nhà trường.

2. Hợp tác với các giáo viên khác để cùng nhau cải thiện phương pháp giảng dạy

3. Liên kết và tương tác với phụ huynh học sinh có con theo học để cùng nhau tổ chức các hoạt động hợp tác với mục tiêu cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo (không theo kiểu bệnh hình thức như hiện nay) 

4. Thiết lập các kênh đối thoại phản biện giữa giáo viên, học sinh với nhà trường, các cơ quan quản lý, nhà giáo dục… 

5. Thực hiện việc phân chia lại quyền lực trong cơ quan trường học bằng cách nâng cao vai trò của giáo viên, học sinh và cộng đồng trong việc xây dựng chính sách và chiến lược giáo dục.

6. Nhận diện các vấn đề như nghiện ngập, mang thai ngoài ý muốn, học sinh cá biệt, mù chữ, thiếu dinh dưỡng và thiếu các dịch vụ chăm sóc sức khỏe để đảm bảo nhà trường không bỏ sót các vấn đề này.

Người học trong giáo dục phản biện đóng vai trò trung tâm và chủ động trong các quá trình học tập và rèn luyện. 

Việc học khuyến khích người học tiếp cận đa dạng các nguồn thông tin kiến thức qua nhiều hình thức hoạt động và thực hành nghiên cứu, lập luận, phản biện, chọn lọc thông tin thu được để khám phá kiến thức, ý tưởng mới, sáng tạo và rèn luyện đa dạng các kỹ năng. 

Việc ngồi học, lắng nghe, ghi nhớ… không phải là đặc trưng của giáo dục phản biện.

Trong giáo dục phản biện, người học và người dạy có cùng xuất phát điểm là cùng nhau tìm hiểu và giải quyết các vấn đề mà người học quan tâm qua quá trình tranh luận, đối thoại và lý luận đúng nghĩa. 

Quá trình khai phóng là một quá trình lâu dài mà trong đó người học được giáo viên sử dụng các kỹ năng giảng dạy theo hướng giúp người học tò mò về môn học, tự xác định được mối quan tâm ở môn học đó.

Tiến hành tìm hiểu, chia sẻ với bạn bè và thầy cô, tìm luận cứ, tranh luận và đối thoại để bảo vệ quan điểm, lắng nghe ý kiến người khác, bổ sung hoàn thiện kiến thức, rèn luyện suy nghĩ lôgic khi kết hợp thu nhận ý tưởng hay từ nhiều phía với nghiên cứu của mình và sau cùng của quá trình này là các kiến thức, kỹ năng mới được hình thành cho riêng từng cá nhân tham gia quá trình.

Rõ ràng không quá khó để thực hiện giáo dục phản biện trên thế giới nhưng tôi vẫn cho rằng khả năng áp dụng đại trà ở Việt nam là không thành công với các nguyên nhân sau đây.

Các nguyên nhân khả năng giáo dục phản biện có thể không thành công ở Việt Nam

Tôi muốn bắt đầu các nguyên nhân về khả năng ứng dụng giáo dục phản biện ở Việt Nam có thể không thành công từ một đoạn trích trên Báo Thanh niên ra ngày 09/04/2017 có nhan đề “Đánh tan sự thụ động trong sinh viên” của tác giả Lê Thanh và một sự kiện liên quan đến lớp học sáng tạo của Giáo sư – Tiến sĩ Trương Nguyện Thành.

Đầu tiên là đoạn trích:
“Ông Huân cũng cho rằng khi nghe thầy giảng mà sinh viên không hiểu, có thể hỏi lại. Khi thầy đưa ra một luận điểm, nếu thấy luận điểm của thầy chưa chuẩn cũng có thể tranh luận lại.  

Tư duy phản biện sẽ làm cho sinh viên thoát khỏi những suy nghĩ sáo rỗng, theo lối mòn, phá vỡ tính ì tâm lý và mở ra cho họ những chân trời mới mà chính họ là người mở khóa.

Đó là những yêu cầu cần thiết để hình thành và phát triển kỹ năng tư duy phản biện của sinh viên, tránh kiểu học tập thụ động, chờ đợi, chấp nhận vô điều kiện về những gì người thầy đưa ra.” (Nguồn Báo Thanh Niên)

Tôi có thể khẳng định sự thất bại của giáo dục phản biện ở Việt Nam ngay hôm nay (nếu có hoặc sẽ tồn tại) nếu giáo viên nghĩ như trong đoạn trích trên. 

Suy nghĩ này đúng là có đặc tính của giáo dục phản biện nhưng đã được hiểu và thực hiện sai phương pháp.

Ta có thể dễ dàng nhận ra ưu điểm và điều cần tránh trong tư duy phản biện ngay trong đoạn trích từ “Tư duy phản biện sẽ làm… những gì người thầy đưa ra.” 

Tuy nhiên, điều chưa phù hợp ở đây là quá trình giáo dục phản biện để rèn luyện tư duy phản biện đòi hỏi cả người dạy và người học đi qua quá trình tìm hiểu kiến thức mới mà không bao gồm vai trò của người thầy và người như thông thường. 

Không có khái niệm người thầy (với định kiến mình có kiến thức và phải truyền đạt) và người học (còn trẻ, chưa có kinh nghiệm, chưa có kiến thức, cần lắng nghe để học…) trong giáo dục phản biện. 

Nền giáo dục Việt Nam không thể thành công với giáo dục phản biện vì người thầy không thể nào thoát khỏi cái vỏ bọc của người thầy – người gieo chữ được và sự đãi ngộ về vật chất cũng không cho phép họ làm điều đó. 

Do đó, khi người thầy vẫn là người thầy và là người nắm giữ kiến thức để “giảng bài” thì người học dù có đặt câu hỏi, được khuyến khích đặt câu hỏi, họ vẫn là người học theo nghĩa bị áp đặt kiến thức hoặc suy nghĩ từ người thầy.

Tôi không phản đối hay phê phán tác giả bài báo trên Báo Thanh niên cũng như thầy giáo được dẫn lời trong đoạn trích. 

Tôi chỉ muốn mượn hình ảnh và suy nghĩ của người thầy qua bao thế hệ với rất nhiều quan tâm và hiểu biết về tư duy phản biện vẫn chưa thành công thực sự (hoặc chỉ ngộ nhận là đã thành công) đưa quá trình học tập để rèn luyện tư duy phản biện vào thực tế giảng dạy. 

Dĩ nhiên, tôi hoàn toàn có giúp người học giác ngộ và khai sáng với những gì họ muốn học chỉ khi tôi hoàn toàn ngang hàng với người học như một “Người thầy không biết gì” (trong một tác phẩm của Jacques Rancière, chỉ “người thầy không biết gì” là một phép ẩn dụ với ý nghĩa, phương pháp và thực hành giúp người học khai phóng)

Thứ hai là sự kiện về lớp học sáng tạo của Giáo sư – Tiến sĩ Trương Nguyện Thành.

Vấn đề xã hội đặt ra đối với sự kiện này thể hiện các quan điểm và định kiến xã hội trói buộc hình ảnh người thầy như trong lịch sử dù xã hội đang dần tiến sang kỷ nguyên công nghệ mới. 

Tôi không bàn nhiều về các vấn đề liên quan đến sự kiện này khi các báo chí đã phản ánh khá đa chiều. 

Vấn đề tôi mượn ở đây chính là yếu tố bốc đồng, quy chụp, cố chấp, định hướng dư luận và ít lắng nghe của một bộ phận không nhỏ trong xã hội, bao gồm cả các nhà giáo dục và quản lý giáo dục. 

Việc người ít có điều kiện, thiểu số không được lắng nghe, việc dư luận hay bị định hướng hay sự cố chấp của hình ảnh người thầy trong xã hội chính là phản ảnh của môi trường giáo dục hiện tại. 

Trong môi trường giáo dục, sinh viên ít được lắng nghe, giáo viên ít được cán bộ quản lý lắng nghe, cán bộ quản lý trực tiếp ít được các cơ quan quản lý giáo dục lắng nghe…

Cộng với thói quen hành chính theo lối định hướng từ trên xuống, từ thầy xuống trò có thể hiểu như kiến thức cũng được định hướng từ trên xuống (sự thật là được quy định tất tần tật)… 

Mọi vấn đến này đều dẫn đến việc người giáo viên không thể nào thoát khỏi áp lực và vỏ bọc của chính người thầy trong chính hình tượng xã hội quy định cho họ vì bản thân họ cũng không được lắng nghe. 

Tóm lại, sự kiện này chỉ ra rằng khả năng Việt Nam thay đổi theo hướng giáo dục phản biện là không khả thi trừ khi thay đổi được bản chất của quá trình giáo dục.

Ngoài ra, khả năng thay đổi bản chất quá trình giáo dục không thể xảy ra trong thời gian ngắn bởi vì căn cứ vào tư duy áp đặt và kiến thức nền tảng như hiện tại, không giáo viên nào có thời gian để rèn luyện cho người học thông qua các phương pháp đối thoại, tranh luận… (có lẽ trừ các Trường dân lập và quốc tế chất lượng cao). 

Không cơ sở giáo dục nào cho phép giáo viên (theo kiểu the Ignorant Schoolmaster) đi dạy ở cơ sở của họ.

Không ai đi dạy mà điều mình muốn dạy là hoàn toàn tùy vào người học với yếu tố người thầy thay đổi liên tục cho phù hợp với quá trình phản biện giữa người học và người dạy. 

Dĩ nhiên Jacques Rancière chỉ dùng phép ẩn dụ để so sánh kiểu giáo viên kích hoạt quá trình học tập tư duy của sinh viên qua những điều cả ông và sinh viên đều không biết với kiểu giáo viên thông minh (intelligent teacher) như ở Việt Nam ta là cái gì cũng biết (hoặc được ngầm hiểu như vậy) và đến lớp truyền đạt những gì mình biết cho người khác. 

Đến đây, tôi nghĩ các bạn hoàn toàn có thể trải qua và hiểu giáo dục phản biện cần gì thì mới tạo được lớp người học có tư duy phản biện rồi, thật xa vời với tương lai con em chúng ta. 

Nhưng tôi vẫn tin nếu chúng ta cùng nhau cố gắng, chúng ta vẫn làm được ít nhất là ở phạm vi giáo dục con cháu và những người còn chút niềm tin với chúng ta. 

Thay lời kết

Có một điều mà tôi luôn không hiểu tại sao bao thế hệ giáo viên vẫn luôn phàn nàn là học sinh, sinh viên của mình thụ động, chờ đợi và chấp nhận vô điều kiện những gì học phải học. 

Tôi thắc mắc không biết có bao nhiêu người từng hỏi tại sao họ trở nên như vậy và có những biện pháp nào để thay đổi hay không? Thay đổi như thế nào?

Tôi không có câu trả lời cho tất cả nhưng tôi biết là có thể thay đổi được và phải thay đổi như thế nào trong một giới hạn rất nhỏ hiện tại.  

Ngoài ra, tôi nghĩ việc người dạy và người học không có quyền đúng mức đối với vai trò của họ trong giáo dục, không đủ điều kiện để thay đổi và sáng tạo và họ không có tự do học thuật đúng nghĩa đã hạn chế khả năng chuyển hướng giáo dục Việt Nam sang hướng tiến bộ rồi. 

Tuy nhiên, một trong các vấn đề cốt lõi (nếu nhà nước ủng hộ) thì cải cách theo hướng phản biện giáo dục vẫn rất khó vì hệ thống các trường sư phạm đang thiếu linh hoạt trong việc đào tạo người thầy của giáo dục phản biện. 

Trong thực tế, chúng ta cũng đang thiếu người thầy có thể thực hiện giáo dục phản biện dù chuyện không khó nếu ngày càng nhiều giáo viên có điều kiện hơn (về cả vật chất và tinh thần) để bắt đầu tìm hiểu về giáo dục phản biện với sự khuyến khích của các ngành chức năng và xã hội.

Ngày nay, giáo dục theo hướng truyền đạt kiến thức không thể tồn nếu như xã hội không đề cao giá trị bằng cấp hơn giá trị năng lực bởi vì kiến thức luôn thay đổi và mạng internet chính là cầu nối cho rất nhiều nguồn dữ liệu khi đi kèm với tư duy phản biện thì có lẽ chúng ta không cần người thầy dạy học nữa. 

Tuy nhiên, điều này không đúng cho giáo dục phản biện bởi vì người thầy là người có thể tạo ra các hình thức, hoạt động và phương pháp để cả người học và người dạy có thể khai phá kiến thức và xây dựng dữ liệu mới cho riêng mình mà các nguồn thông tin (dù là phong phú từ internet) chỉ có thể mang tính chất tham khảo như một dạng dữ liệu cho các lý luận. 


Bài viết thể hiện nhận thức, quan điểm, góc nhìn và góp ý của riêng tác giả.
Tài liệu tham khảo:

Gutex, G. L. (1997). Philosophical and Ideological Perspectives on Education (2nd Ed.) MA: Allyn and Bacon.

Bài báo “Đánh tan sự thụ động trong sinh viên” của tác giả Lê Thanh tại http://thanhnien.vn/giao-duc/danh-tan-su-thu-dong-trong-sinh-vien-823850.html

 

Nguyễn Duy Khang

Tinh thần khai phóng

Bài viết này chia sẻ một vài suy nghĩ về một nền giáo dục khai phóng và một nền chính trị khai phóng- các điều kiện cho sự hình thành tinh thần khai phóng cho các thành viên trong xã hội.

Một nền giáo dục khai phóng

Muốn cho các thành viên trong xã hội có được tinh thần khai phóng thì điều kiện trực tiếp là phải có một nền giáo dục khai phóng.

Thời gian gần đây khái niệm “giáo dục khai phóng” được sử dụng nhiều. Có lẽ những người đầu tiên dùng nó đã mượn hoặc dịch từ khái niệm của Paulo Freire: “éducation libératrice”. Đây là một giả định, bởi muốn khẳng định phải có các khảo cứu cần thiết mà người viết bài này hiện tại chưa thực hiện được.

Khái niệm “éducation libératrice” được Freire tường giải trong cuốn Pédagogie des opprimés (tôi dựa vào bản tiếng Pháp, vì không có khả năng đọc bản gốc bằng tiếng Bồ Đào Nha). Ở đây tôi chỉ tập trung vào một vài điểm của cuốn sách.

___________________________________________________________

“Không ai giáo dục người khác, không ai tự giáo dục chính mình, mọi người cùng giáo dục lẫn nhau, thông qua trung gian của thế giới” – Paulo Freire. Một đường lối giáo dục như vậy không cho phép tồn tại phương pháp truyền thụ – tiếp nhận, nó có phương pháp riêng của nó: đối thoại – phương thức để thực hiện sự giải phóng con người. 

   ___________________________________________________________

Nhan đề cuốn sách có nghĩa là: giáo dục học của những kẻ bị áp bức. Đó là loại giáo dục học dành cho những người không chấp nhận chịu áp bức, “những người dấn thân vào cuộc đấu tranh để giải phóng chính họ”. Chữ “opprimé” của Freire phải được hiểu theo nghĩa đó, những kẻ bị áp bức có sứ mệnh giải phóng cho chính mình và cho cả những kẻ đi áp bức. Bởi vì, những kẻ áp bức, dù có đủ quyền lực và bạo lực, không thể tìm thấy sức mạnh để giải phóng cho chính họ và giải phóng cho những kẻ bị áp bức. Sức mạnh giải phóng thuộc về những kẻ bị áp bức, và sức mạnh đó đủ để khai phóng cho cả kẻ bị áp bức lẫn kẻ áp bức. Và khai phóng ở đây là khai phóng cho các tiềm năng của con người, khai phóng cho các năng lực tiềm tàng của con người. Quan niệm này dẫn tới sự hình thành ý tưởng về một nền giáo dục khai phóng trong đó vai trò của các thành phần tham gia quá trình giáo dục thay đổi một cách căn bản: giáo viên không còn chỉ đóng vai trò duy nhất là nhà giáo dục, học sinh không còn chỉ đóng vai trò duy nhất là người được giáo dục; mà trong quá trình giáo dục vai trò của hai bên có thể được hoán đổi cho nhau, giáo viên và học sinh cùng giáo dục lẫn nhau. Tinh thần này thể hiện trong mệnh đề nổi tiếng của Freire: “Không ai giáo dục người khác, không ai tự giáo dục chính mình, mọi người cùng giáo dục lẫn nhau, thông qua trung gian của thế giới”. Một đường lối giáo dục như vậy không cho phép tồn tại phương pháp truyền thụ – tiếp nhận, nó có phương pháp riêng của nó: đối thoại. Đối thoại chính là phương thức để thực hiện sự giải phóng con người. Hoạt động dạy học trở thành hoạt động đối thoại. Chỉ với đối thoại học sinh mới có thể ngừng là đối tượng để trở thành chủ thể, trở thành trung tâm của quá trình giáo dục. Từ quan điểm này ta sẽ thấy, dù chúng ta có tuyên bố hàng nghìn lần trên đủ mọi phương tiện truyền thông rằng chúng ta đang thực hiện một nền giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, nhưng nếu chúng ta không cho phép học sinh, sinh viên trình bày suy nghĩ riêng của họ, kể cả những suy nghĩ đó có thể đối lập với bài giảng của giáo viên, thì lúc đó vẫn chưa thể có chuyện học sinh là trung tâm. Khi quá trình giảng dạy còn chưa phải là một quá trình đối thoại, và giáo viên chưa phải là người tổ chức đối thoại và chưa trở thành đối tượng đối thoại với học sinh, sinh viên, thì vẫn chưa thể nói tới giáo dục khai phóng.  Và lúc đó, chúng ta lấy cơ sở nào để hy vọng rằng có tinh thần khai phóng ở giới trẻ ?
___________________________________________________________
Theo tôi, chữ “khai phóng” là chữ rất hay. Tất cả chúng ta nợ người đầu tiên sử dụng khái niệm này để chuyển dịch hay để nghiên cứu. Từ “libérateur/libératrice” trong tiếng Pháp dùng để gọi người giải phóng, khi là tính từ nó dùng để chỉ hành động giải phóng: éducation libératrice có nghĩa là nền giáo dục giải phóng cho con người. Từ “khai phóng” trong tiếng Việt có thể hiểu theo nghĩa rộng hơn. Tôi chiết tự từ “khai phóng” để hiểu từ này như là một kết hợp của hai nghĩa: khai minh và giải phóng. Dĩ nhiên đây chỉ là cách hiểu của cá nhân tôi. (Cũng có thể hiểu yếu tố “khai” là “khai mở”, “giải tỏa”, và theo nghĩa này thì nó có nét nghĩa chung với yếu tố “phóng”).
___________________________________________________________

Muốn đạt tới việc tự giải phóng cho bản thân mình và giải phóng cho người khác, trước hết con người phải được khai minh. Và khai minh ở đây được hiểu theo nghĩa của Kant: có khả năng sử dụng trí tuệ của mình một cách độc lập. Và muốn có thể độc lập sử dụng trí tuệ của mình thì phải có hai điều: tri thức và sự dũng cảm. Sau Kant, càng ngày nhân loại càng hiểu rõ vai trò của tri thức. John Dewey, nhà giáo dục học nổi tiếng của Mỹ, có trách cứ khiếm khuyết trong chương trình lịch sử phổ thông (dĩ nhiên, nhận xét của ông nhằm vào sách giáo khoa thời đại ông): “Trong lịch sử phổ thông có lẽ lịch sử tri thức là ngành lịch sử bị bỏ quên nhiều nhất. Chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu ra rằng các anh hùng vĩ đại đem lại sự tiến bộ cho số phận của nhân loại KHÔNG PHẢI LÀ (tôi nhấn mạnh – NTTH) các chính trị gia, các vị tướng, các nhà ngoại giao, MÀ HỌ LÀ (tôi nhấn mạnh – NTTH)  các nhà phát minh và sáng chế khoa học, những người đã đặt vào tay con người những phương tiện của một kinh nghiệm đang phát triển và được kiểm soát, và các nghệ sĩ và thi nhân, những người đã ngợi ca những cuộc tranh đấu, những chiến thắng, và thất bại của nhân loại bằng thứ ngôn ngữ nào đó, dù là ngôn ngữ hình ảnh, tạo hình hoặc chữ viết, khiến tất cả những người khác đều có thể cùng sử dụng được ý nghĩa của chúng”1Một trong những vai trò của tri thức, mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó là nó tạo điều kiện cho sự hình thành tinh thần khai phóng. Và giáo dục khai phóng không chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt tri thức, mà, như trên đã nói, nó còn có sứ mệnh chuẩn bị cho học sinh khả năng tạo ra tri thức.

Một nền chính trị khai phóng

Muốn có được một nền giáo dục khai phóng thì điều kiện trực tiếp là phải có một nền chính trị khai phóng.

Dĩ nhiên ở đây tôi không có một khái niệm nào (chẳng hạn như “politique libératrice”) để dựa vào. Bằng cụm từ “nền chính trị khai phóng” này tôi muốn nói tới một hình thức chính trị, một hình thức tổ chức, điều hành xã hội cho phép các cá nhân giải phóng và phát triển các năng lực của họ, tôi muốn nói tới một nền chính trị không kìm hãm con người và không kìm hãm sự phát triển của xã hội. Trong tất cả các hình thái chính trị mà nhân loại đã biết cho tới hiện nay, ta thấy một nền chính trị dân chủ và tiến bộ có khả năng đảm bảo sự khai phóng cho con người trên diện rộng, tức là sự khai phóng ở cấp độ cả cộng đồng. Tôi không phải là nhà tiên tri, nên không biết trong tương lai liệu loài người có thể đạt tới hình thái nào khác tối ưu hơn hình thái dân chủ để điều hành xã hội một cách có hiệu quả và đảm bảo tính nhân bản, đảm bảo cho tự do của con người. Tôi dẫn ra đây nhận định của John Dewey: “Một xã hội tiến bộ bao giờ cũng trân trọng những khác biệt cá nhân bởi nó tìm thấy ở đó phương tiện cho sự tăng trưởng của chính nó. Vì thế, một xã hội dân chủ, phù hợp với lý tưởng của nó, bắt buộc phải cho phép tự do trí tuệ và sự phát huy các năng khiếu và hứng thú đa dạng tồn tại trong các biện pháp giáo dục.”2

___________________________________________________________
“Một xã hội tiến bộ bao giờ cũng trân trọng những khác biệt cá nhân bởi nó tìm thấy ở đó phương tiện cho sự tăng trưởng của chính nó. Vì thế, một xã hội dân chủ, phù hợp với lý tưởng của nó, bắt buộc phải cho phép tự do trí tuệ và sự phát huy các năng khiếu và hứng thú đa dạng tồn tại trong các biện pháp giáo dục”.
                                                                                                                                                          John Deway
___________________________________________________________

Như vậy, tự do trí tuệ và tự do phát triển các năng lực cá nhân là điều kiện cho sự tăng trưởng của toàn xã hội. Tự do trí tuệ là điều kiện cho sự tiếp thu và sáng tạo tri thức; tiếp thu và sáng tạo tri thức chính là hoạt động khai phóng. Nếu chúng ta không hiểu được điều này, không biến sự hiểu biết này thành các chính sách, các chương trình hành động cụ thể, thì khó mà có thể nói đến sự tăng trưởng hay sự phát triển của xã hội. Nếu không có một nền chính trị cho phép tồn tại và phát triển nền giáo dục khai phóng, cho phép tự do trí tuệ, tự do chiếm lĩnh và sáng tạo tri thức, thì các điều kiện cho sự phát triển bền vững sẽ không hình thành được. Vì các điều kiện đó hình thành trên nguồn lực con người. Một nền chính trị thiếu dân chủ sẽ thủ tiêu các năng lực, các tiềm năng sáng tạo của con người.  Đó là căn nguyên sâu xa nhất của mọi sự trì trệ, lạc hậu, kém phát triển, yếu kém, lệ thuộc.

Trong một nền chính trị thiếu dân chủ, khi nhà trường trở thành công cụ tuyên truyền cho các đường lối mang tính áp đặt, thì dĩ nhiên phương thức đối thoại ít có cơ may được sử dụng, hoặc đối thoại chỉ mang tính hình thức, vì rốt cuộc các trao đổi, nếu có, cũng chỉ dẫn tới việc sinh viên buộc phải chấp nhận các kết luận mang tính áp đặt của giáo viên. Một nền giáo dục mang tính áp đặt, khó mà có thể phát triển tư duy cho học sinh, cùng lắm chỉ có thể giúp phát triển các năng lực nhớ trong não bộ của học sinh. Trong lúc đó, từ lâu, từ thế kỷ XIX, với John Dewey, học đã không còn là học thuộc lòng, không còn là tích lũy kiến thức, mà “học tức là học tư duy”. Mục đích của giáo dục là hình thành các năng lực tư duy. Mục đích đó chỉ đạt được khi đối tượng của tư duy là thực tại, là những gì gắn với đời sống của người tư duy. John Dewey viết: “Nếu tư duy chẳng liên quan gì đến điều kiện có thực và nếu nó không xuất hiện một cách hợp lo-gich từ những điều kiện này để đi tới sự suy tưởng về mục đích phải đạt được, khi ấy con người sẽ không bao giờ phát minh, hoặc không bao giờ lên kế hoạch, hoặc không bao giờ biết cách nào để thoát khỏi bất kỳ sự rắc rối hay khó khăn nào. Như chúng ta đã lưu ý, nhờ những yếu tố cố hữu lẫn sức ép của hoàn cảnh mà tư duy có những đặc tính lo-gich hoặc đặc tính của tư duy đích thực”.

Như vậy, rõ ràng đặc tính của tư duy đích thực chỉ hình thành khi tư duy cọ xát với các vấn đề của thực tại, mà John Dewey gọi là “điều kiện có thực”. Nếu một nền chính trị, thông qua trường học, không cho phép học sinh sinh viên đối chiếu kiến thức sách vở với thực tế của họ, không cho phép  họ dùng các kiến thức sách vở để suy nghĩ về các vấn đề có thực của đời sống, thì học sinh sinh viên sẽ không thể phát triển tư duy. Hệ quả là dù có trải qua bao nhiêu năm trên ghế nhà trường đi nữa, dù có các bằng cấp cao đến mấy đi nữa, thì những con người bị đào tạo bởi một nền giáo dục áp chế, trong một nền chính trị áp chế, sẽ không thể có phát minh, như Dewey nhận xét, sẽ không có khả năng giải quyết các khó khăn, không có khả năng giải quyết các vấn đề do thực tại đặt ra. Chúng ta có thể kiểm chứng kết luận này, mà John Dewey đã nêu ra cách đây cả thế kỷ, bằng hiện thực của chúng ta ngày hôm nay, cái hiện thực về sự lúng túng của toàn bộ cộng đồng chúng ta trong việc giải quyết các vấn nạn của xã hội. Sự lúng túng này là dấu hiệu bộc lộ sự yếu kém chung của chúng ta, là dấu hiệu chứng tỏ các năng lực người của chúng ta bị cạn kiệt, chứng tỏ năng lực tư duy của chúng ta suy yếu. Chúng ta rất đông về dân số, nhưng so với một cộng đồng ít ỏi như Singapore, chúng ta quả thật là kém họ trên rất nhiều phương diện. Các năng lực tiềm tàng của chúng ta không thua kém họ, tôi tin là như vậy. Nhưng các năng lực đó đã không được khai phóng để tạo thành sức mạnh. Chúng ta nên làm cái thao tác kiểm chứng này để hiểu tại sao cần một nền giáo dục khai phóng và một nền chính trị dân chủ, không phải cho ai khác, mà cho chính mỗi chúng ta, cho con cháu chúng ta và cho tương lai của cả xứ sở này. Chúng ta cần phải nhìn vào tương lai để điều chỉnh những cách vận hành của hiện tại, bởi nếu chúng ta không điều chỉnh hiện tại này thì có nguy cơ sẽ đánh mất tương lai. Tôi dẫn lại ở đây ý kiến của Dewey: “Con người không dùng hiện tại để kiểm soát tương lai. Con người dùng sự nhìn thấy trước tương lai để điều chỉnh và mở rộng hoạt động hiện tại. Sử dụng sự ham muốn, sự suy nghĩ và lựa chọn theo cách này, tự do được hiện thực hóa”.4

Trên đây là các điều kiện (dĩ nhiên chưa đầy đủ), theo tôi, để hình thành tinh thần khai phóng cho các thế hệ, trên phạm vi rộng. Thiếu các điều kiện đó thì hậu quả là cộng đồng sẽ không được khai phóng. Tuy nhiên, đối với các cá nhân thì không hẳn. Trong một môi trường không có cả giáo dục khai phóng lẫn chính trị khai phóng ta thấy vẫn có các cá nhân được khai phóng. Nhưng chúng tôi sẽ không đề cập đến vấn đề này trong phạm vi bài viết này, ngoại trừ một điều: môi trường càng thiếu vắng các điều kiện cho sự khai phóng cộng đồng, thì lại càng cần có các cá nhân có tinh thần khai phóng.
——–
John Dewey, Dân chủ và giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Tri Thức, 2008, tr. 257.
2 Dân chủ và giáo dục, sđd, tr. 361.
3 John Dewey- Về giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ & Dtbooks, 2012, tr. 343.
4 John Dewey- Về giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ & Dtbooks, 2012, tr. 156

Nguồn: Tạp chí Tia Sáng